watch sexy videos at nza-vids!
Home WAP 3G Forum
Hôm nọ tôi lại sở Bưu điện. Khi đợi tới
lượt tôi để gởi thư bảo đảm, tôi để ý
tới bộ mặt chán chường của thầy thư
ký. Một cuộc đời ngày ngày cân thư,
bán cò, biên chép như vậy tất nhiên
không thú gì hết. Tôi tự nhủ: "Ráng
làm vui cho anh chàng này một chút,
làm cho y nở một nụ cười... Muốn vậy,
phải khen y cái gì mới được. Thử kiếm
xem y có cái gì thực đáng khen
không?". Không phải dễ, vì mình
không quen người ta. Nhưng trường
hợp hôm đó rất dễ vì thầy thư ký ấy có
bộ tóc rất đẹp.
Vậy, trong khi thầy ấy cân thư của tôi,
tôi nói: "Tôi ước ao có được bộ tóc
như thầy!".
Thầy ấy ngửng đầu lên hơi ngạc nhiên,
nét mặt tươi cười và nhũn nhặn trả lời:
"Bây giờ nó đã kém trước rồi". Tôi nói
rằng trước ra sao không biết, chứ bây
giờ tóc thầy còn đẹp lắm. Thầy rất
hoan hỉ. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ
một lúc. Khi tôi ra về, thầy ấy nói thêm:
"Thưa ông, quả đã có nhiều người
khen tóc tôi".
Tôi dám cuộc với bạn rằng bữa đó
thầy về nhà, vui như sao, kể lại chuyện
cho vợ nghe và buổi tối, khi rửa mặt,
ngắm bộ tóc trong gương, tự nhủ, "Kể
ra tóc mình đẹp thiệt".
Khi tôi kể lại chuyện đó, một người học
trò tôi hỏi: "Nhưng ông muốn cầu
người đó điều chi?".
Tôi muốn cầu người đó điều chi ư?
Trời cao đất dày! Nếu chúng ta ích kỷ
một cách ti tiện đến nỗi không phân
phát được một chút hạnh phúc cho
người chung quanh, đến nỗi hễ khen
ai là cũng để hy vọng rút của người ta
cái lợi gì, nếu tim ta không lớn hơn trái
ổi rừng, thì chúng ta có thất bại cũng
là đáng kiếp.
Nhưng quả tôi có cầu anh chàng đó
cho tôi một vật, một vật vô cùng quý
báu: là sự hài lòng cao thượng vì đã có
một hành vi hoàn toàn không vị lợi,
một hành vi nhân từ mà ta sẽ vui vẻ
nhớ tới hoài.
Có một định luật quan trọng nhất mà
chúng ta phải theo khi giao thiệp.
Theo nó thì việc gì cũng hóa dễ, trở
ngại gì cũng thắng được, ta sẽ có vô số
người thương, sẽ thành công và vui
sướng.
Nếu làm trái luật đó tức thì những nỗi
khó khăn sẽ hiện ra. Luật đó là: "Luôn
luôn phải làm cho người cảm thấy sự
quan trọng của họ". Như trên kia tôi
đã nói, giáo sư John Dewey cho rằng
thị dục huyễn ngã là thị dục mạnh
nhất của loài người. Chính thị dục đó
làm cho người khác loài vật.
Trong mấy chục thế kỷ, các triết nhân
tìm kiếm những định luật chi phối
những sự giao thiệp giữa người với
người và tất cả những sự tìm tòi đó
đều đưa đến mỗi một quy tắc không
mới mẻ gì, một quy tắc đã có từ hồi
nhân loại mới có sử. Ba ngàn năm
trước. Zoroastre đã dạy quy tắc đó cho
dân Ba Tư thờ thần lửa. Hai mươi bốn
thế kỷ trước, Khổng Tử đã giảng tới nó.
Lão Tử cũng đã đem ra dạy học trò.
Năm thế kỷ trước Thiên Chúa giáng
sinh, Đức Thích Ca đã tuyên bố nó trên
bờ sông Hằng, mà quy tắc đó đã được
phép trong sách đạo Bà La Môn, một
ngàn năm trước khi Đức Thích Ca ra
đời.
Sau này, Đức Giê Su đem nó ra giảng
trên những đồi đá ở xứ Judée. Tư
tưởng đó tóm tắt trong một câu này,
có lẽ là định luật quan trọng nhất
trong thế giới:
"Con muốn được người ta cư xử với
con ra sao thì con cư xử với người ta
như vậy".
Bạn muốn những người bạn gặp gỡ
đồng ý với bạn. Bạn muốn người ta
thừa nhận tài năng của bạn. Tự thấy
mình quan trọng trong khu vực của
bạn, bạn thấy thích. Bạn ghét những
lời tán dương giả dối thô lỗ, nhưng
bạn cũng thèm khát những lời khen
thật. Bạn muốn bạn thâm giao với bạn
đồng nghiệp cực lực tán thành và
không tiếc lời ca tụng bạn. Hết thảy
chúng ta ai cũng muốn như vậy.
Vậy chúng ta hãy tuân lời Thánh kinh:
"Muốn nhận của người ta cái gì thì cho
người ta cái đó".
Ta cần phải xử sự như vậy khi nào?
Bằng cách nào?... ở đâu?... Xin đáp:
Bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu.
Một hôm, tới một sở thông tin, tôi hỏi
một thầy ký chuyên môn tiếp khách,
chỉ cho tôi phòng làm việc của bạn tôi,
ông Henri Souvaine. Bận một chế
phục sạch sẽ, thầy ta có vẻ tự đắc giữ
việc chỉ dẫn đó lắm. Thầy trả lời tôi rõ
ràng từng tiếng một: "Henri Souvaine
(ngừng một chút) lầu 18 (ngừng một
chút) phòng 1816".
Tôi sắp chạy lại thang máy. Nhưng tôi
ngừng lại và quay lại nói: "Tôi khen
thầy. Thầy đã chỉ đường cho tôi một
cách rõ ràng, thông minh lắm. Thầy có
giọng nói của một tài tử. Cái đó hiếm
lắm".
Tươi như bông hoa, thầy giảng cho tôi
nghe tại sao mỗi lần thầy ngừng lại và
nói rõ ràng từng tiếng.
Những lời tôi khen làm cho thầy cao
lên được vài phân. Và trong khi bay
lên lầu thứ 18, tôi cảm thấy rằng chiều
hôm đó tôi đã làm tăng được đôi chút
cái tổng lượng hạnh phúc của nhân
loại.
Đừng bảo phải là một quốc vương
trên ngai vàng hay là một đại sứ của
Mỹ ở Pháp mới cần thi hành triết lý đó.
Bạn có thể dùng thuật đó mỗi ngày.
Chẳng hạn, bạn đòi món khoai chiên
mà chị hầu bàn đưa lên món khoai
nghiền, bạn chỉ cần nói ngọt ngào:
"Tôi ân hận vì làm phiền chị, nhưng tôi
thích món khoai chiên hơn", thì chị đó
vui vẻ trả lời ngay: "Không sao, thưa
ông, để tôi đổi hầu ông", vì chị ấy cảm
động khi thấy được bạn kính trọng.
Những câu ngăn ngắn như: "Xin lỗi đã
làm phiền ông... xin ông có lòng tốt...
ông làm ơn..." và sau cùng không
quên hai chữ "cám ơn" là một thứ dầu
làm trơn tru bộ máy sinh hoạt hằng
ngày của ta mà lại là dấu hiệu của một
sự giáo dục tốt nữa.
Xin bạn nghe chuyện nhà viết tiểu
thuyết Hall Caine. Ông thân ông làm
thợ rèn và hồi nhỏ ông học ít lắm. Vậy
mà khi qua đời, ông là một nhà văn
giàu nhất thế giới.
Chuyện đời ông như vầy: Ông thích
thơ của Dante Gabriel Rossetti lắm.
Ông diễn thuyết ca tụng tác phẩm của
thi nhân đó, rồi chép bài diễn văn gởi
biếu thi nhân. Ông này thích lắm và
chắc tự nghĩ: "Người này trẻ tuổi mà
biết trọng tài ta như vậy, tất phải là
người thông minh". Rồi Rossetti mời
người con một anh thợ rèn đó lại làm
thư ký cho ông. Nhờ địa vị mới đó,
Caine gặp được những đàn anh trong
văn đàn, được họ khuyên bảo khuyến
khích, bắt đầu viết văn và sau nổi
danh tới nỗi lâu đài ông ở tại cù lao
Man đã trở nên hơi chiêm bái của các
nhà du lịch, và ông đã để lại một gia
tài là hai triệu năm trăm ngàn đồng.
Nếu ông không viết bài khen ông
Rossetti thì biết đâu ông đã chẳng chết
trong nghèo nàn và không một ai biết
tới.
Đó, cái mãnh lực phi thường của lời
khen là như vậy, khi nó tự đáy lòng
phát ra.
Thi nhân Rossetti tự cho là một nhân
vật quan trọng. Cái đó có chi lạ? Ai
trong chúng ta mà không tự cho là
quan trọng, tối quan trọng?
Dân tộc cũng không khác chi cá nhân
hết.
Bạn tự thấy mình hơn người Nhật ư?
Sự thật thì người Nhật tự cho họ hơn
bạn vô cùng. Một người Nhật trong
phái cổ chẳng hạn, tức giận lắm khi
thấy một người đàn bà Nhật khiêu vũ
với một người da trắng.
Bạn có tự cho rằng mình hơn người ấn
Độ không? Đó là quyền của bạn.
Nhưng có tới một triệu người ấn Độ,
khinh bạn tới nỗi không chịu mó tới
thức ăn mà bóng nhơ nhớp của bạn
đã phớt qua; vì sợ lây cái nhơ nhớp
qua họ.
Bạn tự cho là hơn những thổ dân ở
miền Bắc Cực nhiều lắm ư? Bạn được
hoàn toàn tự do nghĩ như vậy. Nhưng
sự thiệt, thổ dân đó khinh bạn vô
cùng. Bạn muốn biết lòng khinh đó tới
bực nào? Thì đây: Trong bọn họ, có kẻ
khốn nạn nào đần độn đến nỗi không
làm nổi một việc chi hết thì họ gọi là
"Đồ da trắng". Đó là lời chửi thậm tệ
nhất của họ.
Dân tộc nào cũng tự cho mình hơn
những dân tộc khác. Do đó mà có
lòng ái quốc - và có chiến tranh!
Chúng ta can đảm nhận kỹ chân lý
này: Mỗi người mà chúng ta gặp đều
tự coi có một chỗ nào hơn ta.
Nếu bạn muốn được lòng người đó,
hãy khéo léo tỏ cho họ thấy rằng ta
thành thật nhận sự quan trọng của họ
trong địa vị của họ.
Xin bạn nhớ lời này của Emerson: "Mỗi
người đều có chỗ hơn tôi; cho nên ở
gần họ, tôi học họ được".
Điều đau lòng là nhiều khi những kẻ
không có chút chi đáng tự kiêu hết lại
khoe khoang rầm rộ để che lấp những
thiếu sót của họ, khoe khoang tới nỗi
làm chướng tai gai mắt người khác.
Như Shakespeare đã nói: "Người đời!
Ôi! Người đời kiêu căng! Khoác được
chút uy quyền, người đó liền diễn
trước Hóa công những hài kịch lố lăng
tới nỗi các vị thiên thần thấy phải sa
lệ".
Và bây giờ, tôi xin kể ba thí dụ mà sự
áp dụng những phương pháp trên kia
đã mang lại những kết quả rất khả
quan.
Thí dụ thứ nhất: Một ông đại tung mà
ta gọi là R... vì ông ta muốn giấu tên. ít
lâu sau khi bắt đầu theo lớp giảng của
tôi, ông với vợ đi xe hơi về quê bà để
thăm họ hàng. Bà ta mắc đi thăm
những nơi khác, cho nên một mình
ông hầu chuyện một bà cô bên nhà
vợ. Ông quyết thực hành ngay những
lý thuyết đã học được và kiếm chung
quanh ông xem có cái gì có thể chân
thành khen được không.
Ông hỏi bà cô:
- Thưa cô, nhà cô cất năm 1890?
- Phải, chính năm đó.
Ông R. tiếp:
- Coi nhà này tôi nhớ lại nơi tôi sinh
trưởng. Nhà đẹp quá!.. rộng... kiểu rất
khéo... Bây giờ người ta không biết xây
nhà đẹp như vậy nữa.
Bà già nói:
- Cháu nói có lý. Thanh niên bây giờ
không biết thế nào là một ngôi nhà
đẹp. Họ chỉ muốn có một căn phố
nhỏ, một máy lạnh, rồi dong xe hơi, đi
chơi phiếm.
Bằng một giọng cảm động, bà ôn lại
những kỷ niệm êm đềm hồi xưa:
"Nhà này là kết tinh của biết bao nhiêu
năm mơ tưởng. Vợ chồng tôi đã âu
yếm mà xây dựng nó, sau khi ấp ủ nó
trong lòng gần nửa đời người. Chính
chúng tôi là kiến trúc sư đó...".
Rồi bà dắt ông R, đi thăm các phòng,
chỉ cho coi từng bảo vật bà đã góp
nhặt được trong những cuộc du lịch
và đã nâng niu suốt một đời. Khăn
bằng hàng Cachemire đồ xứ cổ,
giường ghế đóng ở Pháp, bức tranh
của họa sĩ ý Đại Lợi và những tấm màn
bằng tơ, di tích của một lâu đài bên
Pháp... Nhất nhất ông R. đều thán
thưởng.
Sau khi coi hết các phòng rồi, bà đưa
tôi đi coi nhà để xe. Tại đó, có kê một
cái xe hơi hiệu Packard, gần như mới
nguyên.
Với một giọng êm đềm bà nói: "Dượng
cháu mua chiếc xe này được ít lâu thì
mất, từ hồi đó cô chưa đi nó lần nào
hết...
Cháu sành và có óc thẩm mỹ... Cô
muốn cho cháu chiếc xe này".
Tôi ngạc nhiên và đáp:
- Thưa cô, cô thương cháu quá. Cô
rộng rãi quá, cháu cảm động lắm,
nhưng thiệt tình cháu không thể nào
nhận được. Cháu là cháu rể xa. Vả lại
cô còn nhiều cháu ruột, cô để cho các
anh ấy, các anh ấy sẽ mừng lắm.
Bà la lên: "Cháu ruột! Phải, cái thứ
cháu nó chỉ mong già này chết để
chiếm xe hơi của già? Không khi nào
già để xe Packard này về tay chúng nó
đâu!".
- Vậy thì có thể đem bán cho một hãng
xe được.
Bà lớn tiếng: "Bán ư? Cháu tưởng cô
bán xe này sao? Chịu thấy những
người lạ ngự trong chiếc xe này sao?
Một chiếc xe dượng cháu mua cho cô,
mà đem bán nó? Không khi nào! Cô
cho cháu đấy, vì cháu biết yêu những
đồ đẹp".
Từ chối thì sợ phật ý bà cô, cho nên
ông R. phải nhận.
Bà già đó sống một mình trong một
dinh cơ rộng như vậy, giữa đống khăn
quàng, đồ cổ và kỷ niệm, nên khát
khao chút tình âu yếm. Hồi xưa bà trẻ,
đẹp, được nhiều người tâng bốc. Bà
cất ngôi nhà ấy, yêu mến nó, trang
hoàng nó bằng tất cả những bảo vật
thu thập được ở châu Âu. Và bây giờ
trong cảnh về già buồn tẻ cô độc, bà
khát khao chút lòng thương, chút ấm
áp trong lòng và ít lời thán phục mà
không có kẻ nào biết làm vừa lòng bà
hết. Khi gặp được những cái ao ước từ
lâu đó, khác nào đi giữa bãi sa mạc mà
gặp được dòng suối, bà tất nhiên cảm
tấm lòng người cháu rể lắm và cho
ngay một chiếc xe hơi lộng lẫy.
Một người học trò khác của tôi, lại vẽ
vườn cho một ông trưởng tòa có
danh, thấy bầy chó của ông này đẹp,
khen: "Thưa ông, bầy chó của ông ngộ
lắm, chắc ông được nhiều giải thưởng
trong những cuộc thi chó đẹp".
Ông trưởng tòa vui lòng lắm, dắt họa
sĩ đi coi bầy chó ông nuôi và những
giải thưởng chúng đã chiếm được, nói
chuyện rất lâu về dòng giống các con
chó đó và sau cùng hỏi:
- Ông có em trai nhỏ không?
- Thưa, tôi có một cháu trai.
- Chắc nó thích nuôi một con chó
nhỏ?
- Nói chi nữa, chắc nó mê đi.
- Được! Để tôi cho cháu một con.
Rồi ông trưởng tòa chỉ cho họa sĩ cách
nuôi chó lại cẩn thận đánh máy lên
giấy, sợ ông này không nhớ hết.
Thành thử ông trưởng tòa đó cho họa
sĩ một con chó đáng 100 mỹ kim và bỏ
ra một giờ quý báu của ông chỉ vì họa
sĩ đã thành thật khen tài nuôi chó và
bầy chó của ông.
Làm sao cho người ta ưa mình liền
George Eastman, vua hãng sản xuất
phim Kodak, đã chế ra thứ phim trong
suốt để chiếu bóng được và kiếm
được cả trăm triệu mỹ kim, nổi tiếng
khắp hoàn cầu. Mặc dầu vậy, ông ấy
cũng như bạn và tôi, cảm động trước
những lời khen tầm thường nhất.
Hồi đó ông Eastman xây một âm nhạc
học đường và một nhà hát để báo
hiếu cho mẹ. Ông Adamson, giám đốc
một hãng đóng ghế quan trọng,
muốn được ông Eastman mua ghế
giúp để dùng trong hai ngôi nhà đó.
Ông Adamson bèn dùng điện thoại
gọi viên kiến trúc sư của ông Eastman
để xin được hầu chuyện ông Eastman.
Khi ông Adamson tới, viên kiến trúc sư
dặn: Ông Eastman bận việc lắm. Ông
có muốn nói gì thì nói mau đi rồi ra.
Nếu ngồi lâu quá năm phút thì đừng
có hy vọng gì thành công hết.
Viên kiến trúc sư dắt ông Adamson vô
phòng ông Eastman, ông này đương
cặm cụi trên bàn giấy một hồi lâu mới
ngửng đầu lên, tiến lại gần hai ông kia
nói: Chào hai ông, các ông có việc
chi?.
Viên kiến trúc sư giới thiệu ông
Adamson rồi, ông này nói:
Thưa ông Eastman, trong khi đứng
đợi, tôi ngắm phòng giấy ông. Làm việc
trong một phòng như phòng này thực
là một cái thú. Hãng tôi cũng có làm
những ván lót tường. Nhưng tôi chưa
thấy phòng làm việc nào lót ván đẹp
bằng phòng này.
Ông Eastman:
Ông làm tôi nhớ lại một điều mà tôi cơ
hồ quên mất. Phải, phòng này đẹp
thật. Hồi mới đầu tôi thích nó lắm.
Nhưng bây giờ tôi quen rồi; với lại bận
việc nhiều quá, có khi hàng tuần
không để ý tới những trang hoàng đó.
Adamson đi thẳng lại những tấm ván,
lấy tay sờ.
Thứ này bằng cây sồi mọc bên Anh,
phải không ông? Hơi khác thứ sồi mọc
bên ý.
Đúng vậy, ông Eastman trả lời - Tôi
chở nó tự bên Anh về. Một ông bạn
sành về các loài danh mộc đã lựa
giùm tôi.
Rồi ông Eastman chỉ cho ông
Adamson tất cả những đồ trang hoàng
trong phòng, chính do ông chỉ bảo,
sắp đặt. Hai người lại đứng trước cửa
sổ, ông Eastman nhũn nhặn và kín
đáo như thường lệ, lấy tay chỉ những
công cuộc ông đã gây dựng để giúp
nhân loại. Ông Adamson nhiệt liệt
khen ông đã biết dùng tiền. Một lúc
sau, ông Eastman mở một tủ kính, lấy
ra một máy chụp hình, cái máy thứ
nhất của ông, do một người Anh bán
cho ông.
Ông Adamson hỏi ông về những nỗi
khó khăn buổi đầu và ông cảm động,
kể lể về cảnh nghèo khổ của ông hồi
nhỏ: Bà mẹ góa, nấu cơm cho khách
trọ, còn ông thì làm thầy ký, sao khế
ước cho một sở bảo hiểm để kiếm mỗi
ngày 5 cắc. Cảnh nghèo khổ ám ảnh
ông ngày đêm, làm ông lo sợ lắm và
nhất quyết kiếm sao cho có đủ tiền để
bà cụ khỏi cảnh vất vả không kể chết
đó.
Thấy ông Adamson chăm chú nghe,
ông hăng hái tả những đêm thí
nghiệm các tấm kính chụp hình, sau
khi đã vất vả cả ngày ở phòng giấy, chỉ
chợp mắt được một chút trong khi đợi
các chất hóa học ngấm. Thành thử có
lần luôn 27 giờ đồng hồ, ông không có
dịp thay quần áo.
Sau cùng, ông nói:
Lần du lịch cuối cùng qua Nhật Bản,
tôi có mua về một bộ ghế bày trong
hành lang nhà tôi. Nhưng nắng giọi
làm lở sơn, nên chính tay tôi phải sơn
lại. Ông có muốn biết tài sơn ghế của
tôi không? - Trưa nay ông lại dùng
cơm với tôi, tôi chỉ cho ông coi.
Sau bữa cơm, ông Eastman dắt khách
đi xem ghế. Ghế xấu, chỉ đáng giá một
đồng một chiếc, nhưng ông Eastman
là người đã kiếm được cả trăm triệu
bạc vinh hạnh khoe những chiếc ghế
đó lắm, vì chính tay ông đã sơn nó.
Rút cuộc, cái com-măng ghế chín vạn
mỹ kim đó ai được lãnh, chắc bạn đã
hiểu. Và từ đó hai người thành cặp tri
kỷ cho tới khi ông Eastman mất.
Cái ảo thuật của lời khen đó có nên
dùng trong gia đình không? Tôi tưởng
không có nơi nào người ta cần dùng
nó - mà cũng xao nhãng nó - bằng
trong gia đình.
Bà ở nhà chắc có ít nhiều tánh tốt; ít
nhất hồi xưa ông cũng nghĩ như vậy;
nếu không, sao ông cưới bà? Nhưng
đã bao lâu rồi ông chưa hề khen bà
một lời? Từ hồi nào?
Bà Dorothy Dix, nổi danh về những
câu chuyện hàng ngày, nói:
Chưa học nghệ thuật khen thì xin ông
đừng lập gia đình. Trước khi cưới bà,
ông làm vui lòng bà là một sự lịch
thiệp; sau khi cưới rồi, nó là một sự
cần thiết và một bảo đảm cho hạnh
phúc trong gia đình...
Nếu ông muốn mỗi bữa cơm thường
là một bữa tiệc, thì xin ông đừng bao
giờ chê bà nhà nấu nướng vụng; đừng
bao giờ bực mình mà so sánh những
món của bà làm với những món của
cụ bà làm hồi xưa. Trái lại, cứ khen
không ngớt tài quản gia của bà, cứ
khen thẳng ngay rằng bà hoàn toàn,
đã duyên dáng mặn mà, đủ công
ngôn dung hạnh lại còn là một nội trợ
kiểu mẫu nữa. Cả những khi cơm khê,
canh mặn, ông cũng không nên phàn
nàn. Chỉ nên nói rằng bữa cơm lần đó
không được hoàn toàn bằng những
lần trước thôi. Và để đáng được nhận
lời khen đó, bà sẽ chẳng quản công
trong việc bếp núc. Phải khéo léo,
đừng khen bất ngờ quá, cho bà khỏi
nghi.
Nhưng chiều nay hay chiều mai, ông
nên mua ít bông về biếu bà. Đừng nói
suông: Phải, việc đó nên làm, rồi để
đó. Phải làm ngay đi. Và xin ông nhớ
kèm thêm một nụ cười với vài lời âu
yếm. Nếu người chồng nào cũng đỗi
đãi với vợ cách đó thì đâu có nhiều vụ
ly dị như vậy?
Bạn có muốn biết làm sao cho một
người đàn bà mê bạn không? Cái đó
mới tài! Không phải bí quyết của tôi
đâu, mà của bà Dorothy Dix. Một lần
bà phỏng vấn một anh chàng nổi
tiếng có nhiều vợ, đã chiếm được trái
tim - vả cả vốn liếng nữa - của 23 người
đàn bà. (Tôi phải nói rằng bà phỏng
vấn anh chàng ấy ở trong khám). Khi
bà hỏi anh ta làm sao mà dụ dỗ được
nhiều đàn bà như vậy thì anh ta đáp:
Thằng khờ nào mà chẳng làm được...
Thì cứ khen họ cho họ nghe.
Thuật đó dùng với đàn ông cũng có
kết quả mỹ mãn. Disraeli, một trong
những nhà chính trị khôn khéo nhất
đã nắm vận mạng cả đế quốc Anh, có
lần nói: Gặp một người, cứ nói với họ
về chính bản thân họ, họ sẽ nghe bạn
hàng giờ.
Vậy muốn được thiện cảm của người
khác, xin bạn theo quy tắc thứ sáu:
Làm sao cho họ thấy cái quan trọng
của họ.
Các bạn đọc tới đây đã nhiều rồi. Xin
gấp sách lại - Và ngay từ bây giờ, người
đầu tiên nào lại gần bạn, bạn cũng
đem thí nghiệm vào họ thuật khen đó
đi. - Bạn sẽ thấy thực là thần diệu.
Sáu cách gây thiện cảm:
1- Thành thật chú ý tới người khác.
2- Giữ nụ cười trên môi
3- Xin nhớ rằng người ta cho cái tên
của người ta là một âm thanh êm đềm
nhất, quan trọng nhất trong các âm
thanh.
4- Biết nghe người khác nói chuyện.
Khuyến khích họ nói về họ.
5- Họ thích cái gì thì bạn nói với họ về
cái đó.
6- Thành thật làm cho họ thấy sự quan
trọng của họ.
© 2012 WapTảiVN, Inc.
All rights reserved